NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT MA HA TÁT
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT
BÁT NHÃ TÂM KINH
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.
Quán Tự Tại Bồ Tát
hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt
thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị
không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư
pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị
cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý,
vô sắc, thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô
minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập,
diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la
mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo
mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật, y
Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la
mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng
chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba
la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la
yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Dịch nghĩa
Việt
Tâm Kinh Bát Nhã Ba
La Mật Đa
Ngài Bồ Tát Quán Tự
Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn
đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc,
sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Nầy Xá Lợi Tử, tướng
không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm
chẳng bớt.
Cho nên trong cái
không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới
cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh, mà
cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập,
diệt, đạo.
Không có trí cũng
không có đắc, vì không có sở đắc.
Khi vị Bồ Tát nương
tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng
ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh
Niết Bàn.
Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả
vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Cho nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú
cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
Cho nên khi nói đến
Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là phải nói câu chú:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Chú giải Tâm Kinh Bát
Nhã Ba La Mật Đa
Phần chú giải
Mở đầu phần chú
giải, mời các bạn đọc lại đoạn Kinh bằng âm Hán:
Quán Tự Tại Bồ Tát
hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt
thiết khổ ách.
Nghĩa Việt đoạn
Kinh này:
Ngài Bồ Tát Quán Tự
Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật, thì soi thấy năm uẩn
đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Bồ Tát là một người
tỉnh thức. Bồ Tát từ chữ Boddhisatava mà ra, có nghĩa là con người tỉnh thức và
đang giúp người khác tỉnh thức. Quán Tự Tại là tên dịch từ Avalokiteshvara.
Tại Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, và Nhật Bản, dịch Avalokiteshvara là Quan
Âm, Quán Âm, có nghĩa là một người biết lắng nghe và nghe tiếng kêu cứu của
chúng sanh đang đau khổ.
Khi Ngài Quán Tự
Tại Bồ Tát thực tập thâm sâu về Bát Nhã Ba La Mật Đa ( Prajana Paramita
), tức là thứ trí tuệ có thể đưa bạn đến bờ bên kia. Thì ngài thấy năm uẩn
đều không.
Vậy Năm uẩn không
cái gì? Năm uẩn rỗng cái gì? Đó là một câu hỏi quan trọng.
Nếu tôi cầm một tách
nước đầy và tôi hỏi bạn, "Cái tách này trống rỗng?" Bạn sẽ
nói, "Không, tách này có đầy nước." Nhưng nếu tôi đổ hết nước ra
ngoài và hỏi bạn lại lần nữa, bạn có thể nói, " Đúng rồi, tách là
trống rỗng." Nhưng, trống rỗng cái gì? Trống có nghĩa là không chứa một
cái gì đó. Tách không thể, không chứa cái gì. Tách nước đang trống rỗng
nước nhưng nó chứa đầy không khí. Khi Bồ Tát Quán Thế Âm nói rằng năm
uẩn đều là không, chính xác Bồ Tát Quán Thế Âm dạy rằng năm uẩn đều là
không có tính riêng biệt. Tức là không có uẩn nào tồn tại một cách
độc lập. Và 1 trong 5 uẩn có liên hệ tương tức với 4 uẩn còn
lại.
Năm uẩn, là năm yếu tố
của con người. Nó giống như năm con sông đang chảy trong mỗi người chúng
ta. Con sông của hình tướng, có nghĩa là hình hài cơ thể của bạn; con
sông của cảm xúc; con sông của nhận thức; con sông tinh thần; và con sông
của ý thức. Nó luôn hoạt động không ngừng nghỉ.
Trong cơ thể của một
người bình thường có phổi, tim, thận, dạ dày, và máu. Không có một bộ
phận nào tồn tại độc lập. Chúng luôn có mối liên hệ tương tức với
các bộ phận còn lại. Phổi và máu của là hai bộ phận có chức năng riêng
rẻ, nhưng không thể tồn tại độc lập. Phổi để hít thở, bơm oxy vào cho máu,
và đến lượt máu lại cung cấp dinh dưỡng cho phổi. Nếu không có máu, phổi
không thể sống lành mạnh khỏe khoắn, và ngược lại nếu không có phổi, máu
sẽ không được làm sạch và lưu thông mọi nơi trong thân thể. Vì vậy
phổi và máu có quan hệ mật thiết với nhau. Khi quán chiếu các bộ phận
còn lại như thận và máu, thận và dạ dày, thận và phổi, thận và
tim, đều như vậy. Bạn hãy tưởng tượng, trong cơ thể con người, có rất
nhiều bộ phận, thì từng bộ phận một có liên hệ với các bộ phận
còn lại tạo ra mối quan hệ đan xen như thế nào. Nó như một tổ hợp
hoán vị n! của một bộ phận trong cơ thể với vô số các bộ phận còn
lại.
Bồ Tát Quán Thế Âm
nhìn sâu vào năm uẩn của sắc, thọ, tưởng, hành, thức và nhận thấy rằng
không có uẩn nào tồn tại độc lập. Và khi “ hành thâm ”như vậy
ngài đã “độ nhất thiết khổ ách”
Hành thâm là thâm nhập
vào một cái gì đó, không chỉ đứng bên ngoài mà nhìn vào. Khi bạn muốn
hiểu rõ điều gì, bạn không thể chỉ đứng bên cạnh và ngó vào rồi nhận
xét. Bạn phải đi sâu vào bên trong để thực sự thấu hiểu. Nếu bạn muốn hiểu
rõ một người bên cạnh, bạn phải biến cái cảm xúc của họ thành cảm xúc
của mình, phải đau khổ với nổi đau khổ của họ, phải vui với niềm vui của
họ.
Nếu bạn chỉ nhìn vào
tờ giấy như một người quan sát, đứng bên ngoài mà nhìn vào, bạn không thể
hiểu nó hoàn toàn. Bạn phải hành thâm nó. Bạn phải là một đám mây, là ánh
nắng mặt trời, và người đốn củi. Nếu bạn hành thâm được như vậy, sự hiểu
biết của bạn về tờ giấy rốt ráo hơn.
Bây giờ mời các
bạn đọc tiếp đoạn Kinh sau:
Xá Lợi Tử, sắc bất dị
không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành
thức diệc phục như thị.
Nghĩa Việt của
đoạn Kinh:
Thầy Xá Lợi Tử,
sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính thực là
không, không chính thực là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều như vậy.
Đoạn Kinh này, ban
đầu Ngài Bồ tát Quán Thế Âm nói về uẩn thứ nhất, tức là Sắc, là thân thể của
chúng ta. Sắc là tất cả những hiện tượng sinh lý, vật lý. Trong Kinh văn, chữ
gây khó khăn cho nhiều người nhất là 空Không. Chữ Không ở đây, tiếng Phạn là Sunyata,
Hán là 空, dịch tiếng Việt là trống rỗng. Ví dụ rau muống gọi là Không
tâm thảo, thứ rau không có ruột. Khi chuyển sang dùng tiếng Việt, chúng ta có
thể hiểu lầm “Không” này là “không có”.
Nhiều người không hiểu
giáo lý tính Không đạo Phật nói rằng tờ giấy này nó “không có”, tại vì tuy
bây giờ nó có đó, nhưng mai mốt nó sẽ không có; hoặc nó bị đốt đi, hoặc bị mục
đi thành đất, cho nên tuy nó có đó mà cũng như không có đó. Câu giải thích này
hoàn toàn sai với giáo lý đạo Phật.
Theo giáo lý đạo
Phật, nếu tờ giấy này nó “không” thì nó không ngay từ bây giờ chứ không phải
sau này nó mới không. Giáo lý đạo Phật cơ bản là giáo lý vô ngã: sự vật không
có tự thể riêng biệt. Nếu mình nhìn vào tờ giấy này với con mắt của một vị Bồ
Tát biết nhìn sâu vào trong lòng tờ giấy để thấy cội nguồn của nó, mình sẽ thấy
có một đám mây đang bay trong tờ giấy này. Mình cũng không cần là thi sĩ mới
thấy được đám mây, vì mình biết nếu không có đám mây thì không có mưa, cây rừng
sẽ không thể mọc lên được, do đó chúng ta không có bột giấy. Nhìn vào tờ giấy
này, bạn còn thấy mặt trời, vì nếu không có mặt trời chiếu lên thì không có
loài thực vật nào mọc được, cho nên nhìn vào tờ giấy này, ta sẽ thấy ánh mặt
trời chói lọi trong đó. Rồi ta còn thấy rừng cây xanh mướt, thấy những chiếc lá
rụng, mục đi để cây rừng tươi tốt, ta thấy những chất khoáng trong lòng đất mà
rễ cây hút lên để nuôi cây. Rồi ta thấy người tiều phu đã đốn cây đem về để
làm bột giấy, thấy Ba Má của ông tiều phu. Ta thấy luôn gạo lúa mà người tiều
phu ăn hàng ngày để có thể đủ sức đi đốn cây.
Tóm lại, khi nhìn tờ
giấy này bằng con mắt quán chiếu nhân duyên, ta thấy rằng không có hiện tượng
nào trên vũ trụ mà không có mặt trên tờ giấy. Tờ giấy, chứa đầy cả vũ trụ vạn
hữu trong đó.
Khi dùng danh từ giấy,
ta nên phân biệt hai thứ: một là tờ giấy và hai là những yếu tố không phải
giấy. Ta có thể nói rằng: giấy được kết hợp bằng những yếu tố không phải giấy.
Giấy là do những yếu tố không giấy tạo ra, giấy không thể tự có được. Giấy
không có tự tánh hoặc có thể tự riêng biệt.
Nó có là nhờ những cái
không phải nó bắt tay nhau tập hợp làm ra. Tờ giấy này tuy rỗng, không có tự
tánh riêng, nhưng nó lại đầy cả vũ trụ vạn hữu trong đó. Vì vậy chữ “空” trong Tâm Kinh Bát
chỉ có nghĩa là không có một tự thể riêng biệt.
Uẩn nào trong năm uẩn
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cũng không hết, vì uẩn nào cũng không thể tự mình
tồn tại độc lập. Uẩn nào cũng phải nhờ các uẩn khác phụ giúp mới có thể có
được.
Đồng xu có hai mặt:
mặt trái và mặt phải. Sở dĩ có mặt phải là nhờ có mặt trái. Nếu một trong hai
mặt mà không có thì mặt kia cũng không có luôn. Năm uẩn cũng vậy, chúng nương
nhau mà có, chứ không thể có một cái tách rời. Phân chia là để tạm hiểu thôi,
chứ năm uẩn không thể nào tồn tại độc lập với nhau. Trong con người chúng ta,
có đủ tâm, can, tỳ, phế, thận: tuy chia ra làm năm cái nhưng kỳ thực nếu không
có tâm thì can có thể tồn tại được không? Nếu không có tỳ thì phế có được hay
không? Tuy rằng năm mà kỳ thực là một. Những cơ quan trong cơ thể ta không thể
tồn tại độc lập, cái này nương cái kia mà có. Vì thế Phật dạy rằng: Thử hữu
tắc bí hữu. Cái này có mặt cho nên cái kia có mặt, cái kia có mặt cho nên cái
này mới có mặt. Tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đã phối hợp lại để làm thành
một hiện tượng. Không sự vật nào trong vũ trụ có tự tánh riêng biệt hết. Đó là
giáo lý căn bản của đạo Phật.
Mời bạn đọc tiếp
đoạn Kinh “ Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất
cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.”
Dịch nghĩa Việt là
: “ Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ
chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. ”
Chư pháp tức là mọi
hiện tượng. Mặt trời là pháp, dòng sông, hạt bụi, hòn sỏi, sự thương, sự ghét,
con mắt, lỗ tai cũng đều là pháp.
Thể mọi pháp đều
không: bản chất của mọi hiện tượng đều không, nghĩa là không có tự tánh riêng
biệt.
Không sinh cũng không
diệt. Các pháp chưa bao giờ sinh ra, cũng không bao giờ diệt. Câu nói này của
Đức Quán Tự Tại đi ngược với nhận thức thông thường của chúng ta.
Mỗi ngày trong cuộc
sống của chúng ta, chúng ta thường chứng kiến sự sinh tử. Khi một người
được sinh ra, tờ giấy khai sinh công nhận thời điểm người đó sinh ra. Sau
khi người đó chết, để có tính pháp lý khi chôn cất, người nhà cần
phải có một giấy chứng tử. Giấy chứng tử công nhận con người đó đã
chết. Chúng ta thường nghĩ cái gì cũng có sanh, cái gì cũng có diệt, và sinh
diệt xãy ra hàng ngày. Vậy tại sao Đức Quán Thế Âm lại nói không sinh cũng
không diệt?
Chúng ta phải nhìn sâu
hơn, quán chiếu thâm sâu để xem tại sao Đức Quán Thế Âm lại nói như
thế.
Ngày mà mẹ bạn sinh
bạn ra, nó được ghi lại trong giấy khai sinh. Vậy trước ngày đó, bạn đã
tồn tại chưa? Trước ngày sinh đó, bạn đã có mặt rồi. Nhưng chưa hội đủ
duyên để bạn ra khỏi bụng mẹ bạn thôi.
Chữ sinh làm mọi
người hiểu là từ không mà trở thành có. Nếu mình có rồi thì mình đâu cần
phải sinh nữa? Vậy bạn không có sinh. Nếu không có sinh tức là không có
diệt. Đó là sự thật mà Đức Quán Thế Âm muốn khơi mở cho chúng ta thấy.
Thể mọi pháp đều không,
Không sinh cũng không
diệt.
Đã không sinh rồi thì làm sao mà có diệt? Có thể nào mình
làm cho hòn đá kia từ có trở thành không? Rất khó. Mình có thể nghiền nó thành
bột, rồi rãi tung ra, nhưng đó đâu phải là biến nó thành không? Hòn đá chỉ trở
thành bột đá. Cây nhang mình đốt, nó cũng không phải đang từ có đi tới không.
Mùi thơm của nhang đi vào trong không gian, nhiệt lượng của nó cũng đi vào
không gian. Nó đang luân hồi. Tro của nhang sẽ đi vào đất để có thể trở thành
một nụ hoa. Một hột bụi dù nhỏ xíu đi nữa cũng không thể nào biến mất đi được.
Nó chỉ biến đổi, đi vào vũ trụ tồn tại dưới một hình thức khác.
Vì vậy, không ai có
thể làm cho một vật từ có trở thành không, cũng như không ai có thể làm cho một
vật từ không trở thành có. Một đám mây khi gặp khí lạnh có thể cảm thấy sợ hãi,
vì nghĩ rằng mình sẽ trở thành không. Sự thực không phải thế. Khi gặp khí lạnh,
nếu đám mây biết được không sinh cũng không diệt, mây chỉ trở thành mưa, để
rơi xuống trên ruộng đồng, trên cây cỏ, trên hoa lá, thì đám mây sẽ cho đó là
một hình thái đi chơi rất vui sướng. Đám mây sẽ rung mình biến thành mưa một
cách rất tự nhiên, rất điềm tĩnh, rất hoan lạc.
Chúng ta hay lo lắng, sợ rằng sau khi mình chết, thân mình
không còn nữa. Nói như nhạc sỹ Trịnh Công Sơn “ Một mai trở về
cát bụi”. Nhưng điều đó không đúng sự thật. Các bạn biết đó, như
phân tích ở lúc đầu, một tờ giấy mỏng cũng chứa cả vũ trụ thì
hạt bụi cũng vậy. Một hạt bụi cũng chứa toàn bộ vũ trụ. Nếu
như bạn lớn như mặt trời, bạn nhìn xuống trái đất, thấy trái đất nó
chẳng là cái gì, vô cùng bé. Nhưng bạn là con người, bạn nhìn trái
đất rất vĩ đại, to lớn vô cùng. Ý tưởng lớn nhỏ đó chỉ là khái niệm
trong tâm trí của chúng ta. Ví dụ, mặt trăng, Bạn luôn nghĩ trăng tròn,
trăng khuyết. Nhưng trên thực tế, mặt trăng vẫn luôn là mặt trăng. Nó không
khuyết nó cũng không đầy. Lớn bé, nhỏ to, khuyết đầy là trong suy
nghĩ của bạn. Vì vậy, bạn đừng sợ mất đi. Hãy quán chiếu mặt
trăng. Trăng khuyết, trăng tròn, nhưng nó luôn luôn là mặt trăng đó thôi.
Mời các bạn đọc tiếp đoạn Kinh sau
Thị cố không trung vô
sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị
xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận,
nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô
đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Dịch nghĩa Việt
của đoạn Kinh này là:
Cho nên trong cái
không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới
cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh,mà
cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập,
diệt, đạo.
Không có trí cũng
không có đắc, vì không có sở đắc.
Đọan Kinh này là phân tích mười tám giới. Đầu tiên bạn có
sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sau đó có cảm nhận ( sáu
trần ) về sắc, thanh, mùi, vị, xúc giác, và tâm. Sắc là đối tượng
nhận biết của mắt, âm thanh là đối tượng nhận biết của tai, và tiếp tục
như vậy bạn có sáu thức. Từ sắc tức là cái thấy cho đến ý thức bạn có
mười tám giới . Mười tám giới, từ nhãn giới cho đến ý thức giới, đều nương nhau
mà được thành lập. Không giới nào có thể tồn tại độc lập. Một giới có mặt là do
mười bảy giới kia có mặt. Chữ không ở đây có nghĩa là không có sự tồn tại biệt
lập.
Các bạn đọc đoạn
Kinh tiếp theo
Bồ đề tát đõa y Bát
nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn
ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Dịch nghĩa Việt
của đoạn Kinh này:
Khi vị Bồ Tát nương
tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng
ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh
Niết Bàn.
Mộng tưởng điên đảo là
những tri giác sai lầm của mình. Chúng tạo ra những sợ hãi và căm thù mà mình
đã là nạn nhân lâu nay. Khi đám mây biết rằng nó không sinh cũng không diệt,
thì khi thời cơ tới, nó có thể an nhiên biến thành mưa. Và khi biến thành mưa,
đám mây sẽ cười thích thú mà rơi xuống trên cây cỏ, trên ruộng đồng, để làm
tròn nhiệm vụ nước mưa của mình. Những đợt sóng trên biển cả cũng là do mưa mà
thành. Một chiếc lá cây cũng vậy. Nếu biết quán chiếu theo Tâm Kinh Bát Nhã Ba
La Mật Đa , chiếc lá sẽ thấy rằng trong suốt mùa thu và mùa hạ, nó đã làm việc
hết sức mình để nuôi dưỡng cây. Chúng ta thường nghĩ lá là con cháu của cây, ít
khi ta nghĩ rằng lá cũng là mẹ của cây. Sự thực, lá cũng là mẹ của cây, vì chất
nhựa do các rễ cây hút từ dưới đất lên, chưa thể dùng để nuôi cây được: đó chỉ
là nước lã thêm các chất khoáng mà thôi. Chiếc lá, có chức năng quan trọng
của nó.
Trong sách Thế giới Khoa học của Mcgraw Hill dành cho học sinh tiểu học, đã minh họa cho học sinh hiểu rõ chức năng quan trọng của chiếc lá. Những chiếc lá nhỏ chính là những nhà máy dùng ánh sáng mặt trời và các chất khí trong không gian biến nhựa trong cây thành năng lượng. Màu xanh của lá cũng do mặt trời và những chất khí làm ra. Chiếc lá có thể quán chiếu rằng sự sống của nó chủ yếu là ở trong cây, chứ không phải là chỉ ở trong lá. Lá chỉ là một phần của cây, và là đồng nhất nó với cây.
Chiếc lá vàng nhìn lại bản thân và biết rằng trong giai đoạn này nó chỉ là một phần của lá mà thôi. Những chất bổ nó tạo ra bây giờ đang nằm trong cây. Nếu lá nhận thức ra rằng nó là cây, đồng nhất nó với cây, thì chiếc lá đó sẽ không còn sợ hãi, sẽ thấy được sự bất sinh bất diệt của nó khi nó rơi xuống đất. Nó sẽ rơi xuống, một cách rất thanh thản, vừa rơi vừa múa và biết rằng nó tiếp tục làm công việc nuôi dưỡng thân cây. Nó sẽ biến thành đất mùn để lại bón cho cây và sẽ trở lại cây. Như vậy, nó thấy được sự bất sinh bất diệt của chính nó.
Trong sách Thế giới Khoa học của Mcgraw Hill dành cho học sinh tiểu học, đã minh họa cho học sinh hiểu rõ chức năng quan trọng của chiếc lá. Những chiếc lá nhỏ chính là những nhà máy dùng ánh sáng mặt trời và các chất khí trong không gian biến nhựa trong cây thành năng lượng. Màu xanh của lá cũng do mặt trời và những chất khí làm ra. Chiếc lá có thể quán chiếu rằng sự sống của nó chủ yếu là ở trong cây, chứ không phải là chỉ ở trong lá. Lá chỉ là một phần của cây, và là đồng nhất nó với cây.
Chiếc lá vàng nhìn lại bản thân và biết rằng trong giai đoạn này nó chỉ là một phần của lá mà thôi. Những chất bổ nó tạo ra bây giờ đang nằm trong cây. Nếu lá nhận thức ra rằng nó là cây, đồng nhất nó với cây, thì chiếc lá đó sẽ không còn sợ hãi, sẽ thấy được sự bất sinh bất diệt của nó khi nó rơi xuống đất. Nó sẽ rơi xuống, một cách rất thanh thản, vừa rơi vừa múa và biết rằng nó tiếp tục làm công việc nuôi dưỡng thân cây. Nó sẽ biến thành đất mùn để lại bón cho cây và sẽ trở lại cây. Như vậy, nó thấy được sự bất sinh bất diệt của chính nó.
Ta cũng vậy. Chúng ta
sợ hãi vì chúng ta thấy sự sinh diệt qua nhận thức sai lạc của chúng ta: vì
vọng tưởng của chúng ta về sinh diệt, nên ta mới sợ.
Nếu ta quán chiếu được
tự thể của mình, biết rằng mình là bản thể của sự sống, chỉ chuyển biến chứ
không có sinh diệt, tất ta vượt thoát khỏi sự sợ hãi về sinh diệt. Và chúng ta
sẽ bằng lòng với bất cứ hình thức nào mà mình sẽ tiếp nhận sau này. Sự quán
chiếu đó, ta có thể thực hiện được. Nếu không học Bát Nhã Tâm Kinh, không học
quán chiếu theo đạo Phật, ta không thấy được sự diễn biến của các hiện tượng
trong vũ trụ. Quán được như vậy ta sẽ thoát ra khỏi sinh tử, ta sẽ có một nụ
cười, sẽ vượt ra cái mà ta gọi là sự sợ hãi.
Sự sợ hãi là gánh nặng
đè trĩu lên kiếp người chúng ta từ lúc sơ sinh đến khi nhắm mắt. Đức Quán Thế
Âm hiến tặng chúng ta kinh này với mục đích giúp chúng ta vượt thoát sự sợ hãi,
sự sợ hãi sinh tử. Quán về nhân duyên sinh, ta có thể vượt thoát mọi khổ đau
của sự sống.
Bây giờ mời đọc
giả đọc đoạn Kinh tiếp theo
Tam thế chư Phật, y
Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Dịch nghĩa Việt
Các vị Phật ba đời vì
nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Đoạn Kinh này khẳng
định các đức Phật thành đạo ở ba đời cũng chỉ nhờ phương pháp quán sát trí
tuệ Bát Nhã này mà thôi, chứ không nhờ phương pháp nào nữa.
Mời bạn đọc
tiếp đoạn Kinh sau:
Cố tri Bát nhã Ba La
Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng
chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Nghĩa Việt của
đoạn Kinh
Cho nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là
chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
Chú, tiếng Phạn là
Dharani, có nghĩa một câu nói thoát ra trong trạng thái hết sức vững chãi.
Thân, tâm và ngôn ngữ hoà hợp lại trong một định lực thật lớn, một câu nói có
thể thay đổi được hoàn cảnh thì gọi là linh chú.
Khi bạn quán chiếu
vào điều gì, bạn sẽ nắm bắt chúng rõ ràng như giữ trái cam trong tay.
Bồ Tát Quán Thế Âm khi quán chiếu năm uẩn, ngài nhìn thấy bản chất của
tương tức của năm uẩn và ngài đã vượt qua mọi nỗi đau. Bồ Tát Quán
Thế Âm đã hoàn toàn được giải thoát. Đó là trạng thái thiền định, an
lạc, giải thoát, vì vậy mà Bồ Tát Quán Thế Âm thốt ra một điều quan
trọng. Đó là lý do tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm nói ra câu thần chú.
Mời bạn đọc
tiếp đoạn Kinh sau:
Cố thuyết Bát Nhã Ba
La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la
yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Dịch nghĩa Việt
của đoạn Kinh này
Cho nên khi nói đến Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là phải nói câu chú:
Cho nên khi nói đến Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là phải nói câu chú:
Yết đế yết đế, ba la
yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Thần chú Quán Thế Âm
là "Gate Gate paragate parasamgate bodhi svaha". Đọc theo âm hán
là yết đế, yết đế, ba la yết đế, bồ đề tát sa va. Gate Gate: có
nghĩa là qua rồi. Paragate: qua bên kia rồi. Parasamgate: tất cả vượt qua bên
kia rồi. Bodhi: tỉnh thức. Svaha: tiếng reo gọi vui mừng có năng lực thúc đẩy,
tương đương với tiếng chào mừng hoặc hò dô ta của mình vậy.
Khi bạn lắng nghe
thần chú này, bạn nên chú ý, tập trung, từ đó bạn mới có thể nhận được
năng lượng từ Bồ Tát Quán Thế Âm. Bản kinh này không chỉ sử dụng để
đọc tụng. Mà Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật được xem là một công cụ Bồ Tát
Quán Thế Âm ban cho phật tử để thực hiện sự giải thoát cho bản thân và
cho tất cả chúng sinh. Nó giống cái cày, cái cái bừa ban cho người nông
dân.
Trong đạo Phật có
ba loại bố thí. Bố thí thứ nhất là bố thí vật. Thứ hai là bố thí
trí tuệ, hay còn gọi là Pháp thí. Thứ ba, là loại bố thí cao nhất, vô
úy thí. Quán Thế Âm Bồ Tát là vị bố thí cho chúng ta loại Vô úy thí,
giúp chúng ta tự giải phóng khỏi nỗi sợ hãi. Đây là tâm Bát nhã.
Tâm Kinh Bát nhã cho phật tử một nền tảng vững chắc vô úy
thí, thực hành an lạc cho bản thân, vượt qua nỗi sợ hãi của sinh tử. Trong
ánh sáng của tánh không, tất cả mọi vật đều có liên hệ với nhau, mỗi
vật đều có trách nhiệm với mọi điều xảy ra trong cuộc sống. Nụ cười bạn
đang nở trên môi, nó không những làm cho bản thân bạn an lạc mà những
người xung quanh bạn cũng an lạc, cả thế giới cũng an lạc. Phật tử
khi hồi hướng đều đọc câu nguyện cho thế giới hòa bình, cho chúng sanh
an lạc. Nếu bạn không an lạc, không nở nổi nụ cười thân bạn không an
lạc hòa bình thì làm sao bạn làm cho mọi người xung quanh nở nụ
cười và an lạc được.
Mỗi hơi thở, mỗi
bước đi, mỗi hành động, mỗi nụ cười, đều có đóng góp tích cực cho sự
sống an lạc của bạn và của cộng đồng. Cho nên bạn phải sống một
cuộc sống có ý nghĩa ngay trong hiện tại, ngay trong phút giây
này.
Cảm ơn bạn đã đọc
chú giải Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Hoàng Phước Đại (Đồng An)
Hoàng Phước Đại (Đồng An)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét